Không nằm ngoài những xu hướng tất yếu của thế giới, các doanh nghiệp trong nước cũng đang dần chuyển mình để đưa ứng dụng công nghệ Internet of Things (IoT) vào trong sản xuất ở Việt Nam. Tuy nhiên thì quá trình này đang gặp nhiều khó khăn hơn bao giờ hết khi đại dịch Covid – 19 đang có những ảnh hưởng rất tiêu cực đến quá trình phát triển của các doanh nghiệp.
Tiềm năng phát triển giải pháp Internet of Things tại các doanh nghiệp Việt Nam
IoT tại Việt Nam đang là một lĩnh vực “hot”, thu hút được nhiều công ty về công nghệ tham gia nghiên cứu và sản xuất. Một số ví dụ điển hình nhất về phát triển IoT như: Mimosa Tech đã thực hiện thương mại hóa giải pháp cho ngành nông nghiệp chính xác; Hachi là giải pháp nhằm giúp xây dựng khu vườn cá nhân tự động tại nhà; BKAV và Lumi, Hunonic là những doanh nghiệp đứng đầu trong thị trường nhà thông minh, không chỉ sở hữu thị trường trong nước mà còn xuất khẩu sang các nước ngoài khác như Úc, Singapore và Ấn Độ; Ngoài ra còn có nhiều ứng dụng khác đang trong giai đoạn thử nghiệm và đòi hỏi cần nhiều thời gian hơn để trưởng thành cũng như cung cấp trên thị trường.
Ấy vậy mà, hiện nay vẫn chưa có giải pháp Internet of Things (IoT) nào ở Việt Nam thực sự đang có ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống sản xuất. Trong thời gian sắp tới, các ứng dụng trong lĩnh vực như giao thông thông minh, như trạm thu phí không dừng, thêm tính năng phạt nguội bằng camera, taxi công nghệ (Uber, Grab hay giao hàng nhanh…) chúng là các ứng dụng liên quan tới IoT được dự báo trong thời gian ngắn sẽ trở nên phổ biến, có nhiều ảnh hưởng tích cực tới cuộc sống. Các lĩnh vực rất tiềm năng như y tế điện tử, hay nông nghiệp thông minh, bất động sản thông minh sẽ có cần thêm thời gian để ra đời những ứng dụng IoT phù hợp với Việt Nam.
Đặc biệt riêng đối với ngành công nghiệp, mặc dù hiện nay chưa có giải pháp IOT nào có sức lan tỏa nhanh, mạnh, nhưng một số tập đoàn lớn cũng đã mạnh mẽ chuyển mình và tự xây dựng cho mình những hệ thống IOT trong hoạt động sản xuất.
Các thách thức trong việc triển khai ứng dụng IoT
Hầu hết thì các hệ thống ứng dụng nêu trên nếu dùng công nghệ IoT đều thuộc các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước cơ bản hiện nay mới chỉ tập trung vào các ứng dụng trên nền tảng với điện thoại di động, hay máy tính cá nhân mang tính nhỏ lẻ mà chưa thể khai thác hết tính thông minh của hệ thống cảm biến hay khai thác thêm những dữ liệu lớn.
Cho đến cuối năm 2019, sự đón nhận và ứng dụng Internet of Things ở Việt Nam chưa thể nói là đã bao phủ sâu rộng. Tuy nhiên những kỳ vọng về một năm sáng lạng đầy hy vọng cho IoT vào năm 2020 cũng đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi đại dịch toàn cầu Covid-19. Chắc chắn rằng nhiều doanh nghiệp đã phải từ bỏ phải hủy kế hoạch ứng dụng Internet vạn vật vào trong sản xuất bởi các vấn đề về kinh phí, nhân công không được đảm bảo với 1 năm chống chọi với tác động tiêu cực của dịch bệnh.
Ngoài ra, các doanh nghiệp tại Việt Nam đang phải đối mặt với một vài thách thức lớn sau:
- Thiếu đi những bộ khung triển khai phù hợp thực tiễn:Các dự án phát triển sản phẩm/giải pháp IoT được thực hiện với cách tiếp cận còn phức tạ, thiết sự rành mạch, chưa đồng nhất ngoài ra còn không phù hợp với lại thực tiễn. Từ đó phát sinh thêm các vấn đề khó khăn nên rất khó kiểm soát, các biện pháp nhằm xử lý vấn đề cũng không có hiệu quả.
- Tính ổn định, khả năng mở rộng cùng tính bảo mật dữ liệu của sản phẩm IoT chưa thực sự được tốt như mong đợi: đặc thù của IoT là sự kết nối với rất nhiều cá thể, sự trao đổi mảng dữ liệu giữa các cá thể có thể xảy ra liên tục với tần suất lớn, và đòi hỏi khả năng bảo mật quyền riêng tư cao. Sự ổn định của sản phẩm IoT đó chính là yếu tố đặc thù vì điều này liên quan trực tiếp đến tiện ích đem lại cho cộng đồng. Tuy nhiên, mức độ ổn định của sản phẩm IoT vẫn không đáp ứng được yêu cầu của họ. Một số tính năng của sản phẩm (tuy có thể chỉ là những tính năng bổ trợ thêm) không hoạt động thực sự tốt, lúc hoạt động được, lúc không hoạt động, gây ra sự không hài lòng cho người dùng.
- Giá thành sản phẩm còn cao do chi phi nghiên cứu phát triển và chi phí sản xuất cao: Giá thành của sản phẩm IoT khi đưa ra thị trường thường sẽ cao hơn nhiều so với mức độ chấp nhận, khả năng chi trả để sử dụng sản phẩm của cộng đồng người dùng. Nguyên nhân chính là do giá thành đầu vào khá cao hoặc do kỳ vọng lợi nhuận không thực tế. Bản chất IoT là một lĩnh vực mới, sản phẩm còn mới chưa có tiền lệ, thế nên sản phẩm IoT dễ bị doanh nghiệp định vị quá cao trên thị trường.
Giải pháp giúp doanh nghiệp Việt chủ động ứng dụng IoT ?
- Hình thành nên hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp, trong đó nhấn mạnh vào vai trò của nhà nước trong việc kiến tạo điều kiện hỗ trợ và thúc đẩy tác động tới kinh tế của ngành công nghiệp IoT trong các lĩnh vực như; xây dựng hạ tầng cơ sở về mạng lưới truyền thông với thế hệ 5G; xây dựng và đồng thời thống nhất tiêu chuẩn IoT; tăng cường bảo mật, an toàn, an ninh, cho hệ thống IoT.
- Xây dựng ra một lộ trình, một chính sách chung cho toàn bộ các thành tố của hệ thống sinh thái IoT để các bên cùng “bắt tay nhau” và phát triển. Có thể nói các vấn đề nghiên cứu phát triển IoT bao phủ một phạm vi rất rộng. Nó không chỉ giới hạn trong phạm vi một kỹ thuật cụ thể của công nghệ thông tin và truyền thông mà bao trùm gần như là toàn bộ các lĩnh vực từ công nghệ phần cứng hay phần mềm, công nghệ kết nối truyền thông cùng quản lý mạng, cơ sở dữ liệu. Không những thế, mà nó còn liên quan tới các kỹ thuật, các công nghệ thuộc các lĩnh vực khác như tự động hóa, cơ khí chính xác, các công nghệ về môi trường về nông nghiệp và các ngành công nghiệp khác.
- Tham khảo thêm những kinh nghiệm nước ngoài trong xây dựng hệ thống của quốc gia nghiên cứu và phát triển hơn nữa về IoT. Một số nước ở trong khu vực, trong đó có Trung Quốc đã hình thành nên một Hệ thống quốc gia nghiên cứu và phát triển về IoT, là thành tựu kết quả của Kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội 5 năm lần thứ 13 trong giai đoạn 2016-2020. Hệ thống đó gồm các doanh nghiệp như các tổng đài và các nhà phân phối cung cấp cho các hoạt động và phát triển hệ thống của IoT. Các trường đại học các viện nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu công nghệ chủ chốt và các tổ chức tiêu chuẩn chịu trách nhiệm để xây dựng tiêu chuẩn cho IoT trong toàn quốc.
- Để xây dựng về lợi thế trong cạnh tranh, Chính phủ đóng một vai trò không thể thiếu trong việc tạo ra một số các dự án tiên phong để nâng cao năng lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm tạo thêm sức cạnh tranh trên thị trường nội địa, cũng như hướng thị trường ở quốc tế. IoT đang trong giai đoạn đầu phát triển, vì thế chưa được định hình hoàn toàn, đặc biệt là các chuẩn trong việc kết nối, bảo mật và số lượng thiết bị IoT cho thị trường Việt Nam vẫn còn ở mức thấp, chưa đủ hấp dẫn. Do vậy mà, Thông qua các vườn ươm công nghệ, cần có thêm những chính sách ưu đãi để thu hút các doanh nghiệp quyết định khởi nghiệp của khu vực và của thế giới tham gia nhằm phát huy hơn nữa thế mạnh của nguồn nhân lực và tận dụng nguồn chi phí sản xuất thấp tại Việt Nam.
Đặc biệt hơn là trong thời điểm nền kinh tế quốc tế và cả trong nước đang từng bước đi vào khôi phục sau những ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch COVID-19, các gói kích cầu kinh tế cần được triển khai hiệu quả hơn nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp hoạt động dài hơi hơn và có cơ hội đầu tư sâu hơn vào công nghệ hiện đại như IoT.
Kết luận
Rõ ràng có thể thấy rõ được rằng các doanh nghiệp đã dần hiểu ra được tầm quan trọng của Internet of Things ở Việt Nam trong hành trình xây dựng và phát triển hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, vào thời điểm hiện tại muốn tiếp cận và triển khai chúng không phải là điều dễ dàng chút nào với bất kỳ doanh nghiệp nào đi chăng nữa. Trở ngại vẫn còn vây quanh đeo bám lấy các nhà quản lý ở thời điểm hiện tại khi mà họ đang đứng giữa các sự lựa chọn để có thể vận hành doanh nghiệp của mình đã tạo dựng. Nhưng đừng vì điều đó mà nhịt trí hãy từng bước tiến đến con đường thành công con đường của sự phát triển vượt bậc IoT.